Thứ Ba, 23 tháng 6, 2009

Không gian tinh thần.

I. Cái Tôi

1. Khái niệm cái Tôi

Cái Tôi là điểm bắt đầu của mọi quá trình xã hội. Cái Tôi là hạt nhân cơ bản trong cấu trúc đời sống tinh thần của con người, nó chính là cái phôi tinh thần để tạo ra một cá thể trọn vẹn. Một xã hội văn minh là một xã hội có các cá thể trọn vẹn, tức là một cộng đồng có tính cá thể. Một cộng đồng mà không có tính cá thể hay chất lượng cá thể không trọn vẹn thì khó có thể tồn tại và phát triển, bởi con người ai cũng sợ sự giống nhau và trên thực tế con người tồn tại trên nguyên lý của sự khác nhau. Nghiên cứu cái Tôi là điểm xuất phát của toàn bộ việc nhận thức về cuộc sống và con người. Có được nhận thức về cái Tôi, về các giá trị cá nhân thì con người mới biết tôn trọng, bảo vệ và giữ gìn nó. Nếu không tôn trọng cái Tôi, không tôn trọng cá nhân thì chúng ta sẽ phá vỡ ngôi nhà tinh thần chứa đựng những nội dung cao quý của con người.
Thế giới tự nhiên vận động tự do và vô cùng phong phú, đa dạng. Giống như các thực thể tự nhiên khác, con người cũng đa dạng, vì vậy, đa dạng là một thuộc tính xã hội. Sự khác biệt của những Cái Tôi hay tính đa dạng của xã hội loài người là tất yếu theo quy luật của tự do. Có thể nói, tính đa dạng là một đặc thù tự nhiên của cuộc sống, nó không bao giờ mất đi. Ngay cả trong những điều kiện không tự do thì tính đa dạng cũng vẫn tồn tại, nhưng trong trường hợp này nó buộc phải tồn tại dưới hình thức bất hợp pháp.

Chúng ta có thể hình dung sự đa dạng của cuộc sống bằng các hệ tọa độ. Decarter là nhà toán học sáng tạo ra hệ quy chiếu, nhưng đó là hệ tọa độ của những vấn đề thông thường, của những khái niệm thông thường. Chúng ta đang sống trong thời đại mà các quy luật của Newton không còn đủ để mô tả và do đó mới có lý thuyết tương đối của Albert Einstein. Lý thuyết tương đối có thể ứng dụng ngay cả trong đời sống xã hội. Tất cả các chiều kích trên hệ tọa độ hay tất cả những sự tương đối đều cho chúng ta thấy thế giới là đa dạng, con người là đa dạng ngay từ trong tinh thần. Tự do là linh hồn của sự đa dạng tinh thần của con người và con người chỉ phát triển nếu con người tự do, con người có đủ các điều kiện để phát triển những năng lực, những phẩm chất của mình.

Nghiên cứu sự đa dạng tinh thần là nghiên cứu cấu trúc tinh thần, là tiệm cận đến tâm hồn, đến sự phát triển tự nhiên của đời sống tâm hồn con người. Tâm hồn con người với các năng lực mà nó có không dễ nắm bắt, không tĩnh tại mà luôn vận động và biến đổi. Trong đời sống tâm hồn của con người có những miền đã phát triển, có những miền đang phát triển và có cả những miền chưa phát triển, chưa được đánh thức hay chưa hình thành. Không ai có thể đưa ra một mô hình cấu trúc tinh thần cá nhân hoàn thiện bởi đa dạng là đặc trưng cơ bản của cấu trúc tinh thần cá nhân, nó là cơ sở tạo nên những miền năng lực khác nhau hay những cung bậc khác nhau của cảm hứng sáng tạo, mà kết quả là những trạng thái phát triển khác nhau của mỗi cá nhân. Có một người cha nói một câu rất hay trong bức thư gửi cho con mình rằng: "Cha rất khâm phục thế giới bởi vì thế giới bao gồm những khuôn mặt khác nhau và phong phú một cách lạ kỳ". Trong một xã hội mà người ta chỉ thấy sự giống nhau thì đó là biểu hiện sự đơn điệu của đời sống tâm hồn, đời sống tinh thần của con người. Một xã hội như vậy không bao giờ là một xã hội phát triển. Một xã hội phát triển là xã hội mà ở đó những cái Tôi khác nhau được bộc lộ và có khát vọng đi tìm hiểu những cái Tôi khác. Cái Tôi luôn chứa đựng trong nó những trạng thái tâm lý, những miền năng lực, những phẩm chất để phân biệt cái Tôi này với cái Tôi khác. Ranh giới giữa con người này với con người kia chính là ranh giới của sự khác nhau. Sự khác nhau của con người chính là một chỉ tiêu mỹ học của loài người, nói cách khác, sự tồn tại của các cá nhân chính là một trong những tố chất mỹ học quan trọng nhất để cấu tạo nên nhân loại. Mỗi con người là một cá nhân, đó là chân lý vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi con người, mỗi dân tộc.

Ở đây, tôi không phân tích cái Tôi dưới góc độ phân tâm học mà nghiên cứu nó dưới góc độ xã hội học. Cái Tôi là một không gian tinh thần, trong đó, không gian đầu tiên là không gian vật chất thuộc sở hữu của cái Tôi, như nhà cửa, xe cộ... Điều ấy có nghĩa, khi nói đến cái Tôi là nói đến sở hữu của cái Tôi. Khi chúng ta không làm rõ khái niệm sở hữu liên quan đến một con người thì chúng ta tước bỏ một phần quan trọng để con người có thể có kinh nghiệm ban đầu về các quyền của mình. Không gian cái Tôi thứ hai quan trọng hơn, khó nhận biết hơn là cái Tôi tinh thần, nó bao gồm không gian quyền lực, không gian trách nhiệm, không gian nghĩa vụ, những trạng thái tâm lý, những năng lực, những giá trị tinh thần... để phân biệt cái Tôi này với cái Tôi khác.

Bản chất của nghiên cứu cái Tôi là nghiên cứu các quyền làm người. Cái Tôi chính là một đại lượng biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất nội dung của khái niệm nhân quyền. Vậy chúng ta phải xây dựng không gian quyền con người như thế nào với tư cách là không gian chính trị cơ bản cần có để tạo ra xã hội? Sở hữu vật chất là một trong những nội dung dễ nhận biết nhất liên quan đến quyền con người. Suy cho cùng, khi người ta lên án cái Tôi chủ yếu là muốn nói đến khía cạnh vật chất của cái Tôi. Khi cái Tôi vật chất này khi không được tôn trọng, không được thể hiện trong nội dung của các quyền con người thì nó sẽ trở thành xuất phát điểm của các hiện tượng tiêu cực như tham nhũng. Nếu chúng ta không giải quyết thoả đáng tất cả các quy tắc để cấu tạo nên cái Tôi chính đáng thì chúng ta sẽ phải đối đầu với nhiều hiện tượng xã hội tiêu cực. Người ta vẫn gọi cái Tôi là tiêu cực mà quên mất rằng sự không đầy đủ, không thoả đáng của tập hợp các quyền con người đã tạo ra trạng thái tiêu cực của cái Tôi chứ không phải cái Tôi là tiêu cực. Một xã hội không lành mạnh sẽ tạo ra một không gian trong đó cái Tôi phát triển theo những khuynh hướng sai chứ không phải cái Tôi sai. Cái Tôi không có tội gì cả, cái Tôi chứa đựng tất cả các nội dung từ thấp hèn đến cao thượng, tuỳ thuộc vào cấu trúc xã hội cho cái Tôi có những không gian chính đáng nào.

Nói tóm lại, cái Tôi là một không gian phức hợp bao gồm tất cả từ cái Tôi vật chất, cái Tôi tinh thần, cái Tôi trách nhiệm, cái Tôi hưởng thụ, cái Tôi chính trị, cái Tôi quyền lực đến cái Tôi quyền lợi... Nghiên cứu cấu trúc của cái Tôi chính là nghiên cứu cấu trúc nền tảng tự nhiên của các quyền cá nhân hay nghiên cứu triết học của nhân quyền. Nếu không hiểu được nội dung triết học của cái Tôi thì chúng ta không hiểu con người là gì và mọi nghiên cứu còn lại đều không có ý nghĩa. Nếu không nghiên cứu được không gian cá nhân, tức là không gian cái Tôi thì mọi chính sách đều không có mục tiêu cụ thể, không có cơ sở khoa học. Cơ sở khoa học của mọi chính sách chính là để phục vụ con người với tư cách là một cá nhân chứ không phải với tư cách là một khái niệm. Nếu chúng ta không nghiên cứu cái Tôi một cách căn bản thì mọi chính sách đều không phục vụ con người. Nghiên cứu quy luật hình thành cái Tôi, nghiên cứu nội dung cấu trúc của cái Tôi, không gian của cái Tôi... là nghiên cứu điểm xuất phát tạo ra các chính sách hay lý thuyết chính trị đúng đắn, phù hợp với những đòi hỏi của xã hội.

2. Miền năng lực của cái Tôi

Nói đến cái Tôi không thể không nói đến miền năng lực của cái Tôi. Sự phong phú về trí tuệ, sự đầy đủ và sung mãn của các năng lực chính là nền tảng tạo ra các giá trị cá nhân, tạo ra vẻ đẹp của mỗi người.

Một trong những năng lực quan trọng nhất trong miền năng lực của cái Tôi là năng lực phản ánh sự thật. Trong các phẩm chất của con người thì Chân - Thiện - Mỹ là gốc, là những phẩm chất cơ bản nhất. Con người hướng tới sự chân thật, sự lương thiện và con người cũng hướng tới cái đẹp. Trong ba phẩm chất này, chân thật không phải là một khái niệm đạo đức thuần tuý. "Chân" là năng lực phản ánh một cách trung thực cuộc sống như nó vốn có. Đấy là năng lực đầu tiên mà con người nhận biết được và là một năng lực mang chất lượng triết học.

Điều cốt yếu tạo nên năng lực phản ánh sự thật chính là khả năng tìm kiếm lẽ phải bằng tâm hồn. Như tôi đã phân tích, nhận thức bằng lẽ phải tâm hồn là biểu hiện cao nhất của tự do. Con người không vận dụng được công cụ quan trọng nhất của mình là tâm hồn vào quá trình nhận thức thì đó là một thiệt thòi. Cuộc sống không phải bao gồm những thứ đo được ngay. Thông thường, trình độ nhận thức của con người không đo được ngay tất cả các khía cạnh hay các giai đoạn, các trạng thái khác nhau của cuộc sống. Cho nên, trong nhận thức có một giai đoạn là suy tưởng, tức là dùng trí tưởng tượng để hình dung về những đối tượng mới, những thành tố mới. Trong quá trình ấy, chỉ có tâm hồn mới có thể hướng dẫn con người đi đến những nhận thức đúng đắn nhất.

Để có thể phản ánh sự thật, con người cần phải chủ động nhận thức và nhất là phải nhạy bén với những thay đổi của cuộc sống, bởi vì bản chất của cuộc sống là luôn luôn thay đổi. Nếu con người neo vào những nhận thức được áp đặt một cách chủ quan mà không thấy được sự thay đổi của cuộc sống thì con người không còn năng lực phản ánh sự thật nữa. Ở một số quốc gia có hiện tượng con người chìm đắm trong một luồng tư tưởng 50-60 năm về mặt chính trị, con người neo mình vào đó và vì thế đã tự tiêu diệt năng lực nhận thức một cách chủ động của mình. Đáng ra, để tồn tại và phát triển, con người phải nhận biết được cuộc sống đang nói gì, nhưng ở những quốc gia ấy, người ta không nghe xem cuộc sống nói gì mà lại cố định hoá những nhận thức về cuộc sống bằng những điều mà những người vĩ đại ở thế kỷ trước đã nói. Nghĩa là họ nhận thức cuộc sống không phải qua chính nó mà qua ảnh của nó, mà ảnh đấy được chụp từ thế kỷ trước. Ngay cả khi những người vĩ đại ấy có năng lực phản ánh đúng sự thật cuộc sống ở thời của họ thì những điều đó chưa chắc còn đúng trong thời nay. Thời của họ chưa có Internet, chưa có điện thoại... nên họ khó mà có thể hình dung ra cuộc sống thời nay. Là những thiên tài, họ có thể dự báo nhưng không thể hình dung được và cũng chỉ có thể dự báo định tính chứ không thể dự báo định lượng. Họ không thể dự báo được rằng có 2 hay 20 triệu điện thoại đang được sử dụng ở Đức hay ở Nga, mà cuộc sống có 20 triệu điện thoại khác xa, thậm chí đã khác về chất, so với cuộc sống chỉ có 2 triệu điện thoại. Tiếp tục nhận thức quá khứ thay cho nhận thức cuộc sống hiện tại, tiếp tục duy trì định kiến hay giáo điều trong đời sống tinh thần là cách chắc chắn nhất để mỗi cá nhân mất đi năng lực phản ánh sự thật và đó chính là nguy cơ dẫn đến những cái Tôi hỏng.

Năng lực thứ hai là năng lực hướng thiện. Nhân đạo là con đường để con người đến với nhau. Cái thiện chính là tôn trọng những quy tắc của nhân đạo, đảm bảo sự đến được với nhau của con người. Hướng thiện làm tăng chất lượng của lẽ phải tâm hồn con người. Đây chính là một trong những năng lực phát triển của con người. Con người hướng thiện là con người luôn giữ gìn khát vọng vươn tới sự thánh thiện của đời sống tâm hồn và sự phong phú của các phẩm chất tinh thần. Nếu không duy trì hàng ngày khát vọng đó, con người sẽ sống với tâm hồn khô héo, với trí tuệ lỗi thời và mọi xúc cảm biến mất.

Năng lực tưởng tượng cũng là một năng lực cơ bản của con người. Như trên đã khẳng định, trí tưởng tượng phụ thuộc vào tư duy của con người, chúng ta có thể ngồi một chỗ để tưởng tượng mà không cần phải có nhiều phương tiện vật chất. Vậy điều kiện nào giúp con người tạo lập năng lực tưởng tượng của mình? Đó chính là tự do. Tự do là điểm khởi đầu của tất cả mọi thứ kể cả năng lực tưởng tượng, bởi vì có tự do thì con người sẽ từng trải, con người sẽ không sợ hãi. Không có tự do, con người đi nhặt nhạnh những thứ để tồn tại thì không thể có năng lực tưởng tượng. Con người lười biếng không dám hành động thì không thể có năng lực tưởng tượng được. Con người phải có năng lực tưởng tượng để liên tục hoá các quá trình suy tưởng, nhưng quan trọng hơn, nó làm cho sự suy tưởng liên tục trở thành những kết quả nhận thức mang chất lượng hiện thực. Nếu không có năng lực tưởng tượng thì con người không thể đi từ chặng này đến chặng kia được. Tưởng tượng là công cụ vạn năng để con người vượt qua những trở ngại của quá trình nhận thức. Hơn nữa, năng lực tưởng tượng là cực kỳ cần thiết để con người có thể xấp xỉ tương lai của chính mình. Chúng ta đều biết rằng, con người luôn luôn cố gắng nhận thức một cách gần đúng tương lai của mình nhưng con người không đoán định được tất cả tương lai mà chỉ xấp xỉ tương lai, và tương lai của con người phụ thuộc rất nhiều vào năng lực xấp xỉ ấy. Đó là khả năng con người liên kết được quá khứ - hiện tại - tương lai trong nhận thức của mình, hay hình dung mình trong tương lai với những kế thừa từ quá khứ.

Con người có năng lực tưởng tượng không có nghĩa là con người có khả năng vẽ ra một thế giới xa rời hiện thực. Con người phải hiện thực hoá sự tưởng tượng ấy bằng cách đưa nó vào những quy trình sống. Mỗi một cá thể phải hoạch định được cuộc sống của mình. Năng lực tổ chức cuộc sống là một trong những năng lực quan trọng nhất của con người trong xã hội hiện đại. Đây là một năng lực tổng hợp từ nhiều năng lực có trong mỗi người.

Ý thức tổ chức cuộc sống xuất phát từ nỗi lo thường xuyên, nỗi lo ấy chăm sóc cuộc sống hàng ngày của cá nhân con người. Sức bươn chải của một con người hay của một xã hội chính là năng lực tự lo chứ không chỉ đơn thuần là năng lực lao động và năng lực sáng tạo. Năng lực tự lo gắn cả trách nhiệm trong đó. Mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về mình, không trông cậy, không dựa dẫm vào ai. Con người cần có sự tất bật tối thiểu để duy trì tính chủ động và sự năng động của mình.

Khi biết lo lắng cho mình, con người sẽ biết lựa chọn những cách giải quyết hữu hiệu nhất. Trong con người luôn có sẵn bản năng lựa chọn. Sự lựa chọn lớn nhất trong đời mỗi con người là lựa chọn cách sống. Khi con người không có tự do hay không nhận biết được tự do, con người phụ thuộc nhiều vào nguồn gốc của mình, con người không tách khỏi nguồn gốc của mình thì sẽ không bao giờ phát triển thành một cá thể độc lập. Người ta chọn chân lý không phải bằng người hướng dẫn mà bằng tình yêu của mình đối với chân lý, với lẽ phải. Con người lựa chọn cách sống cho mình chính là lựa chọn những chân lý mà mình yêu. Khi người ta chọn các đối tượng bằng tình yêu của mình đối với nó thì đó là tự do và đó chính là biểu hiện của năng lực lựa chọn.

Năng lực lựa chọn thường đi cùng với năng lực nhận biết và khai thác cơ hội. Nhưng để có được những năng lực này, trước hết, con người phải có năng lực lao động trí tuệ. Nếu con người không có trí tuệ thì chẳng khác gì một kẻ mù loà gặp gỡ chân lý. Không phải cứ trả lời được các câu hỏi thì có thể trở thành Socrate. Socrate như núi lửa, nếu ngày đêm không nung nấu ở bên trong mình những dòng nham thạch của trí tuệ thì không thể phun trào ra chân lý được. Chân lý là kết quả của sự hun đúc các dòng thông tin và sự lựa chọn các phương pháp tiếp cận đến những chặng khác nhau của khái niệm hay đến những chân lý mới hơn, những khái niệm mới hơn. Con người không thể nào nói mà không biết mình đang nói gì. Liệu chúng ta có thể chấp nhận thân phận của một kẻ mù loà đứng trước sự mênh mông của nhiệm vụ, của cơ hội? Có bao giờ chúng ta tự hỏi cái gì khiến chúng ta bỏ lỡ các cơ hội? Đó chính là sự mù loà nhận thức.

Nhưng nhận biết cơ hội vẫn chưa đủ, con người phải có đủ nghị lực nữa. Mỗi con người cần phải vừa có trí tuệ phong phú, vừa có chương trình hành động thiết thực, vừa có ý chí và nghị lực để theo đuổi các mục tiêu đã được thiết lập một cách đúng đắn và chủ động thông qua hoạt động trí tuệ của họ, tức là con người vừa có năng lực nhận biết, vừa có năng lực triển khai hay hiện thực hoá các năng lực của mình. Như thế, con người mới có khả năng ứng phó kịp thời với các trạng thái của cuộc sống và đáp ứng được những đòi hỏi của nó.

Như vậy, con người có nhiều năng lực, điều phối các năng lực ấy để tạo ra hiệu quả chính là năng lực tổ chức cuộc sống. Năng lực tổ chức cuộc sống chỉ xuất hiện khi con người tự do và chịu thương chịu khó để nhận thức. Tự do và lao động tạo ra năng lực. Nếu không có tự do thì không có tiền đề, không có không gian ban đầu, không có sự sạch sẽ tâm hồn để con người tiếp nhận tất cả các khả năng tìm kiếm lối thoát phát triển. Sự phát triển miền năng lực của con người chính là cội nguồn của sự thịnh vượng. Cho nên, mỗi người cần nhận ra các năng lực của mình và tìm được những khoảng không gian tự do để phát triển các năng lực ấy.

3. Cái Chúng ta

Nhiều người vẫn luôn cho rằng cái Chúng ta bao trùm lên cái Tôi nhưng không phải thế, cái Chúng ta là một trạng thái phát triển của cái Tôi, một trạng thái cá biệt của cái Tôi. Chúng ta và Tôi không phải là hai không gian độc lập khác nhau. Cái Tôi là trên hết, là nguồn gốc của mọi thứ còn lại, trong đó có cái Chúng ta. Khi nào cái Chúng ta ở bên ngoài cái Tôi, bao trùm lên cái Tôi thì đó là trái tự nhiên. Nếu cái Tôi là cái bánh thì cái Chúng ta là yếu tố tạo ra nhân của cái bánh. Cái Chúng ta là một trong những nội dung quan trọng nhất, thể hiện tầm vóc của cái Tôi, nhưng nó không thể thay thế cái Tôi được. Nếu không có cái Chúng ta trong cái Tôi thì anh là một người xấu, nhưng nếu không có cái Tôi thì anh không thành con người.

Cái Tôi luôn gắn liền với không gian danh dự. Trạng thái tụ họp của các danh dự cá nhân tạo ra danh dự tập thể mà danh dự tập thể chính là cái Chúng ta. Phải có danh dự của cái Tôi thì mới có danh dự của cái Chúng ta, tức là cái Tôi là cái xuất phát, nếu đặt cái Chúng ta lên trên cái Tôi sẽ làm phá vỡ cấu trúc tinh thần con người. Nếu không nghiên cứu và bảo hộ cái Tôi, hoặc nếu tấn công hay hướng dẫn nó một cách bừa bãi sẽ dẫn đến việc phá hoại nó. Như đã nói, cái Tôi chính là hạt nhân cơ bản của đời sống tinh thần, cho nên phá hoại cái Tôi chính là phá hoại những nhân tố cơ bản tạo ra xã hội. Một xã hội mà ở đó con người không có sĩ diện, không có lương tri, không có lòng tự trọng chính là xã hội mà cái Tôi đã bị tiêu diệt. Khi không còn cái Tôi thì con người không còn danh dự cụ thể. Do đó, để con người không sống trong không gian chính trị đạo đức giả thì phải khẳng định cái Tôi, khẳng định thành tích của cái Tôi, sở hữu của cái Tôi, lòng yêu nước của cái Tôi chứ không phải của cái Chúng ta.

Nghiên cứu về nội dung Chúng ta sẽ giúp làm rõ không gian nghĩa vụ và trách nhiệm trong cái Tôi. Cái Tôi biến thành cái Chúng ta thông qua không gian trách nhiệm, không gian nghĩa vụ. Không gian nghĩa vụ và trách nhiệm tạo ra phần Chúng ta trong cái Tôi, tức tạo ra tâm lý đại diện. Do đó, cái Chúng ta chính là cơ sở của thuyết đại diện. Nếu một người tự nhận là đại diện mà không ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình thì người đó đại diện cho ai và hy sinh cái gì? Người muốn làm đại diện phải biết mình đại diện cho ai và mình phải có những năng lực nào để hoàn tất nghĩa vụ đại diện. Tuy nhiên, nếu dừng ở mức độ hoàn tất nghĩa vụ thì mới chỉ đủ cho sự tồn tại của xã hội chứ chưa đủ cho sự phát triển. Có những nghĩa vụ bắt buộc và có cả những nghĩa vụ không phải là bắt buộc mà là sứ mệnh. Ví dụ, không phải ai cũng buộc phải có trách nhiệm hy sinh thân mình vì Tổ quốc nhưng có những người làm như thế. Như vậy, con người vẫn luôn có những hành vi vượt ra ngoài nghĩa vụ và trách nhiệm. Cần phải nghiên cứu cả hiện tượng này vì đó là cấu trúc Siêu Chúng ta. Cái Siêu Chúng ta là trạng thái phát triển cao của cái Tôi. Không gian Siêu Chúng ta là nơi con người tiến hành những hành động bên ngoài nghĩa vụ và trách nhiệm. Đó là những hành vi có ý nghĩa phục vụ sự phát triển của nhân loại. Nếu không lý giải được các hiện tượng như vậy thì chúng ta không tìm ra được lối thoát để phát triển nhân loại. Nhân loại tồn tại bằng ý thức trách nhiệm và tinh thần nghĩa vụ, nhưng nhân loại phát triển bằng tinh thần siêu nghĩa vụ, siêu trách nhiệm, tinh thần sứ mệnh. Ý thức về nghĩa vụ và tinh thần trách nhiệm là những phẩm chất cần và đủ để từng cái Tôi tham gia vào tiến trình phát triển, và thứ lãnh đạo chương trình phát triển ấy chính là cái Siêu Chúng ta.

Về bản chất, nghiên cứu cặp phạm trù cái Tôi và cái Chúng ta là nghiên cứu nhân quyền, trong đó cái Tôi là một nội dung rất căn bản và quan trọng để tạo ra một xã hội đúng đắn và chuyên nghiệp. Liên quan đến không gian cái Tôi, chúng ta có thể chia ra thành hai không gian rõ ràng là không gian quyền và không gian nghĩa vụ. Không gian quyền phải được quy định bằng luật, còn không gian nghĩa vụ thì ngoài việc quy định bằng luật còn phải được quy định bằng tinh thần, tức là văn hoá. Nếu không xúc tiến các hoạt động văn hoá để tôn vinh không gian quyền và nghĩa vụ của cái Tôi, nhất là không gian nghĩa vụ, thì con người không được động viên về mặt tinh thần, tức là cái Tôi không có cảm hứng để hành động.

Sự nhận thức không đầy đủ về cái Tôi đã khiến con người có những sai lầm nghiêm trọng. Sự đề cao thái quá chủ nghĩa tập thể đã làm cái Tôi nghẹt thở trong vỏ bọc Chúng ta. Cái Chúng ta bao trùm lên cái Tôi, đè bẹp cái Tôi. Chỉ có những ai nằm ngoài vỏ bọc Chúng ta để lãnh đạo thì mới có cái Tôi. Cái Chúng ta thái quá là tiền đề xã hội để tạo ra chủ nghĩa độc tài tập thể, nó bao bọc, giam hãm tất cả cái Tôi. Khi nào tự do không thuộc về từng con người thì tự do sẽ thuộc về một hoặc một vài người, và đó là nơi sinh ra chủ nghĩa độc tài - nguồn gốc mọi sự tệ hại của xã hội. Nhiệm vụ của chúng ta khi nghiên cứu cặp phạm trù này là giải phóng cá nhân con người, chỉ ra giá trị thiêng liêng của các quyền con người, giá trị phát triển, giá trị nhân văn của quyền con người và cổ vũ xã hội dân chủ như là mô hình xã hội đúng đắn và duy nhất bảo vệ các quyền cá nhân, quyền con người.

Con người, với tư cách là một cá thể, là thành tố gốc, là thành tố quan trọng nhất để cấu tạo nên đời sống xã hội. Mỗi một cá thể ý thức được sức mạnh của mình thì xã hội sẽ mạnh và từng cá thể sẽ tìm kiếm sức mạnh trong sức mạnh. Còn khi cá thể tìm kiếm sức mạnh trong sự nương tựa thì khi không còn nương tựa được nữa, cá thể ấy sẽ trở nên yếu ớt. Chúng ta không thể tạo ra một xã hội mà ở đó con người chỉ chăm chăm tìm kiếm sự nương tựa vào nhau. Cần phải xây dựng xã hội có sức mạnh mà ở đó mỗi con người là một cá thể hoàn chỉnh.

II. Cấu trúc của đời sống tinh thần

Đời sống tinh thần của con người là một cấu trúc. Có nhiều cách phân chia cấu trúc tuỳ thuộc vào các mục đích nghiên cứu khác nhau, nhưng xét trên quan điểm xã hội học, chúng tôi cho rằng đời sống tinh thần của mỗi con người được cấu trúc thành ba tầng khác nhau là tầng thực dụng, tầng tư tưởng và tầng lý tưởng.

1. Các tầng của đời sống tinh thần

Tầng phổ biến nhất trong đời sống hàng ngày của con người là tầng thực dụng. Cuộc sống hàng ngày, về cơ bản, được hướng dẫn bởi hệ thống lợi ích. Để tồn tại, để đạt được các lợi ích, con người phải lặn lội, phải giành giật trong tầng thực dụng, phải giải quyết các mâu thuẫn ngay tại tầng sinh tồn này. Nhưng nếu cho rằng con người chỉ có tầng thực dụng và xem đấu tranh giai cấp là quy luật chi phối chủ yếu sự phát triển của loài người thì lại là sai lầm và sai lầm này đã được chứng minh trên thực tế.

Để tồn tại, con người phải giải quyết các mâu thuẫn của tầng thứ nhất, tức là tầng thực dụng, tầng sinh tồn, nhưng tầng thực dụng không phải là tất cả đời sống. Con người không chỉ sống ở tầng thực dụng mà còn sống cả ở tầng tư tưởng nữa. Nếu trong đời sống thực tế, con người được hướng dẫn bởi hệ thống lợi ích thì trong đời sống tinh thần, con người được hướng dẫn bởi những giá trị tinh thần được tạo dựng bởi tư tưởng và văn hoá. Khi cuộc sống phát triển thì kinh nghiệm phát triển, kinh nghiệm phát triển thì tư tưởng phát triển, tư tưởng là hình ảnh của những kinh nghiệm được khái quát hoá từ sinh hoạt của đời sống thực dụng của con người. Công cụ tư tưởng hình thành bên ngoài đời sống thực dụng để duy trì những thói quen tinh thần của con người, tức là làm cho những nét căn bản của con người trong văn hóa và tư tưởng không bị biến mất. Nó là công cụ để tập hợp, để hướng dẫn trong những hoạt động phi thực tế của con người. Như vậy, đời sống tư tưởng là đời sống có sự hướng dẫn của hệ tư tưởng hoặc văn hóa. Đời sống tư tưởng là đời sống hưởng thụ của con người đối với những kinh nghiệm đã được khái quát hoá từ đời sống thực dụng, do đó, giống như trạng thái thực dụng của con người, trạng thái tư tưởng cũng là một trạng thái có thực.

Nhưng đời sống tư tưởng cũng không phải là chặng cuối cùng của con người vì con người luôn có khát vọng vươn tới sự cao thượng. Tư tưởng mới làm cho con người trở nên tự giác chứ chưa làm con người trở nên cao thượng. Ngay cả ở trong tầng tư tưởng, con người vẫn có những cuộc tranh giành ảnh hưởng, vẫn tiếp tục có những mâu thuẫn không giải quyết nổi, con người vẫn không thống nhất được, do đó con người vẫn có bất hạnh. Và con người đã tìm cách khắc phục cái bất hạnh trong tầng tư tưởng của đời sống bằng tầng lý tưởng hay là tầng siêu thoát, nơi ấy con người trở thành thần thánh hay con người bắt gặp trạng thái thần thánh của chính mình. Phải nhờ đến giá trị lý tưởng mới đủ sức làm cho con người trở nên cao thượng, khi đó con người vừa tích cực tức là có thực dụng, vừa chủ động tức là có tư tưởng, vừa hướng thiện tức là có lý tưởng. Tầng lý tưởng cũng là tầng có thật của đời sống tinh thần con người, ở đó, con người không đấu tranh mà thu xếp với nhau để chung sống, con người hưởng thụ tất cả những tinh hoa, những cái cao quý của đời sống tinh thần.

Ba tầng tinh thần ấy chính là ba trạng thái phát triển của các phẩm chất con người. Cuộc sống luôn tồn tại cả ba tầng như vậy, và đấy là công nghệ sống của con người, là hình ảnh trọn vẹn của sự phân bố các quyền tự do lên những tầng khác nhau của đời sống tinh thần con người. Không thể khẳng định một cách thiếu cơ sở là chỉ phương Đông mới cao quý, rằng phương Đông có đời sống tinh thần và hướng tới các giá trị tinh thần còn phương Tây thì nghiêng về đời sống thực dụng. Như đã phân tích ở trên, cả ba tầng thực dụng, tầng tư tưởng và tầng lý tưởng đều là những tầng có thật của đời sống và chúng tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Không thể nói rằng con người chỉ có trạng thái này mà không có trạng thái kia, không thể đề cao trạng thái này hoặc chế nhạo trạng thái kia, và tuyệt đối không thể để trạng thái này lãnh đạo trạng thái khác. Chính sự không lãnh đạo của tầng này với tầng kia quy định tính khách quan của đời sống, của nhận thức con người. Các tầng ấy có các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau nhưng không lãnh đạo nhau. Mô tả những phẩm chất khác nhau của con người nằm trong một trục quan hệ được gọi là trục lãnh đạo, là một trong những sai lầm lớn nhất của con người. Đã có những ví dụ thực tế về việc sử dụng trạng thái tư tưởng để lãnh đạo trạng thái thực dụng trên thế giới và đấy chính là nguyên nhân dẫn con người đến toàn bộ tấn bi kịch của thế kỷ XX và một vài thế kỷ trước đó.

Khi con người sống một cách cân bằng trong cả ba tầng của đời sống tinh thần thì con người sẽ phát triển. Ngược lại, khi con người lạc vào trong mỗi một tầng cá biệt hay ngộ nhận rằng tầng cá biệt ấy là tầng duy nhất của cuộc sống thì con người thoái hoá. Sai lầm của con người chính là tuyệt đối hoá vai trò của tầng tư tưởng và coi nhẹ vai trò của các tầng khác. Trong cuộc sống, chúng ta vẫn thấy hiện tượng những người ở tầng thực dụng khinh bỉ sự vu vơ của những người ở tầng trên, đấy là sự mất cân bằng, là một dấu hiệu tiêu cực. Thậm chí, sự khiếp sợ của con người đối với tầng thần thánh cũng là một dấu hiệu tiêu cực. Con người không đủ các phẩm hạnh tốt đẹp để có thể hưởng thụ cảm giác thần thánh mà mình tạo ra cho chính mình thì sẽ khiếp sợ, sẽ bị khuất phục, sẽ bị thôi miên bởi những chất lượng thần thánh của người khác. Và đấy cũng là một biểu hiện của sự không phát triển cân bằng của đời sống tinh thần. Nhưng dù ở khía cạnh nào thì con người cũng không dám động chạm đến tầng thần thánh, vì ở đó con người đã hoà giải với nhau, đấy là sự trọn vẹn của con người.

Cần phải đưa con người trở lại đời sống thực dụng khi con người bị đánh lừa, bị lạc lối trong lý trí, trong lý luận hay khi con người mê muội trong đời sống lý tưởng. Con người phải đủ khả năng lên, xuống, vào, ra ở các miền khác nhau của đời sống tinh thần, tức là con người phải được giáo dục để hiểu rằng không gian tinh thần của mình bao gồm cả ba miền như vậy. Con người phải có năng lực sáng tạo ở cả ba miền ấy, phải có đủ dũng cảm và tự tin để đi đến các miền khác nhau của đời sống. Mỗi người phải ý thức được sự cần thiết phải làm ra các giá trị đạo đức để con người cảm thấy sự trong suốt của đời sống tinh thần, tức là cảm thấy trạng thái thần thánh của mình. Thần thánh không phải là cái siêu nhiên, thần thánh là một trong những thuộc tính của con người, một trong những năng lực của con người, đó là năng lực vươn tới hoặc tạo ra các giá trị thần thánh.

Con người thường có thói quen hình dung, sắp xếp các tầng của đời sống theo hệ quy chiếu Decartes, tức là tầng này thấp hơn tầng kia, hay tầng này bên phải, tầng kia bên trái. Nhưng trong đời sống, các tầng ấy không có sự phân chia cao thấp. Chính kiểu tư duy theo lối hình học như thế đã dẫn đến nhiều sai lầm của con người trong cuộc sống. Tất nhiên, sử dụng hệ quy chiếu hay tọa độ hoá các nhận thức là vô cùng quan trọng, vì nếu không có nó, chúng ta rất khó xác định vị trí của nhận thức và khi cần lấy nó ra khỏi miền ký ức của mình để sử dụng, chúng ta sẽ chậm hơn so với những ai biết sắp xếp một cách hình học hay một cách có hệ quy chiếu. Thế nhưng tuyệt đối hóa các hệ quy chiếu trong đời sống tinh thần thì không còn đúng nữa. Ba tầng đó là các trạng thái khác nhau của một con người, có thể được diễn tả dưới dạng các mặt khác nhau của một lăng thể, có thể được mô tả như là những sợi khói có màu sắc khác nhau trong một chùm khói, có thể là những quả bóng có màu sắc khác nhau trong một chùm bóng. Những cái đó xuất hiện tuỳ thuộc vào cái gọi là ưu thế của các kích thích, tức là khi con người có sự chú ý thì năng lực chú ý sẽ hướng con người đến các miền khác nhau của đời sống tinh thần.

Để duy trì được trạng thái cân bằng giữa các tầng của đời sống tinh thần, điều kiện quan trọng nhất, có vai trò quyết định nhất mà con người cần có là Tự do. Tự do không chỉ có giá trị là môi trường tinh thần để con người hành động như một tổng thể trong các quan hệ đối ngoại, trong sự tương tác với người khác, mà Tự do còn có giá trị như là một thứ dung môi tạo ra sự dịch chuyển tự nhiên của con người giữa các tầng khác nhau của đời sống tinh thần. Tự do là một chất dầu bôi trơn để tạo ra sự trôi nổi tự nhiên, sự xuất hiện một cách duyên dáng của những trạng thái khác nhau từ thực dụng đến thần thánh trong đời sống tinh thần của con người.

Tự do hấp dẫn chính ở chỗ nó tạo cho con người trạng thái cực kỳ đáng yêu, làm cho con người không có những nỗi ngượng hoặc là vẫn giữ được sự e lệ cần thiết để tạo ra vẻ đẹp của đời sống tinh thần. Có những nỗi ngượng ngăn chặn hay làm mất đi cảm hứng của con người. Chính sự dịch chuyển tự nhiên và tự do giữa các tầng làm con người vượt qua trạng thái đó. Tự do tạo ra sự dịch chuyển, sự xuất hiện một cách duyên dáng, một cách kịp thời những trạng thái phù hợp với đòi hỏi tức thời của đời sống. Nếu miền tinh thần ở bên trong con người khô cứng, tức là không có sự dịch chuyển ra, vào, lên, xuống một cách tự do giữa các tầng tinh thần thì sẽ rất khó để con người lấy từ trong ký ức của mình những trạng thái tình cảm phù hợp với đòi hỏi tức thời của cuộc sống. Có những lúc con người phải biết lôi mình ra khỏi việc tính toán thực dụng, phải tìm lại những trạng thái lãng mạn từ trong các ngóc ngách của đời sống tinh thần, nhưng khi cuộc sống đòi hỏi, con người cũng phải biết quay trở lại tầng thực dụng mà không bị lạc. Tự do là điều kiện đảm bảo sự luân chuyển một cách linh hoạt, duyên dáng các trạng thái khác nhau trong đời sống tinh thần để con người có thể thích nghi với các đòi hỏi đa dạng của cuộc sống. Đó là một trong những giá trị cực kỳ quan trọng của tự do.

2. Sự phong phú và cao quý của đời sống tinh thần

Con người phải phấn đấu để vươn tới sự phong phú của đời sống tinh thần. Đời sống tinh thần càng phong phú thì con người càng có các động lực tâm hồn để sống và phát triển. Con người phải có hình hài cụ thể thì người ta mới nhận ra, nhưng nhiều khi ngay cả phân biệt bằng hình hài cũng không dễ. Trong cuộc sống hiện đại, người ta có xu hướng phân biệt con người bằng các giá trị. Suy cho cùng, con người là các giá trị của nó. Khi chất lượng của những giá trị tinh thần hội tụ trong một con người đủ lớn để lấn át một cách phổ biến các giá trị vật chất cụ thể thì nó làm cho người đó có thể phân biệt được với những người khác. Một vị tướng của Napoleon Bonaparte có nói rằng: "Thưa bệ hạ, thần cao hơn ngài". Bonaparte trả lời: "Không phải thế, ngươi dài hơn ta, nếu ta muốn ta sẽ làm cho ngươi mất ưu thế đó". Càng ngày, chúng ta càng hiểu giá trị tinh thần của con người ngày càng có ưu thế và nó lấn át các giá trị khác. Chính vì thế, người ta phải cố gắng tổ chức các kỳ thi Olympic, cố gắng luyện tập thể thao để khắc phục sự mất cân đối của con người trong sự phát triển giữa các yếu tố thể chất và các yếu tố tinh thần. Ở một khía cạnh nào đó, những điều này cũng tạo ra sự cân đối của trí tuệ con người. Con người phải biết cân đối giữa mặt tinh thần và mặt thể chất, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.

Mọi giá trị của con người đều bắt nguồn từ sự đa dạng của đời sống tinh thần, tức là khi con người có tự do. Con người phải nhận biết được sự giàu có của đời sống tinh thần là mục tiêu, sau đó là nhận biết các cơ hội và tiếp nữa là giải phóng các năng lực của mình để vươn tới mục tiêu đó. Sự phong phú của tinh thần con người chính là cái kho tiềm ẩn các giải pháp phát triển, đó là nguồn gốc để tạo ra năng lực ứng phó kịp thời với các trạng thái khác nhau của cuộc sống. Vì thế, nếu đời sống tinh thần không phong phú, con người không có các kinh nghiệm tình huống, con người không ứng xử đủ nhanh để tạo ra các giải pháp phát triển và do đó, con người luôn lỡ nhịp trong sự phát triển. Chính sự phong phú, đa dạng của các phôi kinh nghiệm giúp con người không bỏ lỡ cơ hội của mình. Như vậy, nghiên cứu tính đa dạng, phong phú của đời sống tinh thần chính là nghiên cứu cơ hội của mỗi con người. Điều này tạo ra một sự thức tỉnh về tầm quan trọng của đời sống tinh thần đối với sự phát triển của mỗi người.

Những phân tích về tự do cho thấy cần phải biến tự do thành phẩm hạnh để tạo ra những trạng thái phát triển của con người, mà một trong những trạng thái phát triển của con người chính là trạng thái thần thánh. Nói đến đấu tranh giai cấp, nhiều người thường nói đến các ông chủ như những kẻ bóc lột mà không biết rằng con người không thể bóc lột mãi được, bởi lẽ con người luôn có nhu cầu biến mình thành kẻ thánh thiện. Thậm chí, nếu có bóc lột thì cuối cùng, người ta cũng muốn sử dụng các kết quả của bóc lột để gặp gỡ trạng thái thần thánh của mình. Nghiên cứu tự do là nghiên cứu công nghệ biến con người thành thần thánh khi họ là một người bình thường với những động lực thực dụng thông thường. Đó chính là tái tạo lại đời sống tinh thần của con người, làm cho con người trở nên cao thượng ngay cả trong đời sống thực dụng. Đưa con người từ tầng thực dụng lên tầng tư tưởng hay tầng lý tưởng tức là giúp con người sử dụng các công cụ lý luận như là một trạng thái hưởng thụ các giá trị tinh thần của mình.

Hiểu mọi sự đều tương đối là một trong những thành tựu quan trọng nhất của nhận thức. Thuyết tương đối của Albert Einstein có đóng góp to lớn về khoa học và công nghệ nhưng đó mới là một phần trong các quan niệm tương đối của con người. Con người phải nhận thức những đối tượng rộng hơn thuyết tương đối của Albert Einstein, đó chính là thuyết tương đối về mặt tinh thần hay thuyết tương đối xã hội.

III. Năng lực hay giới hạn của tự do

Tự do với ý nghĩa trừu tượng nhất là không gian không có giới hạn, nhưng tự do của con người thì có giới hạn vì nó được thể hiện dưới tập hợp các năng lực của con người. Tự do chính là quyền con người theo đuổi cái mình thích cho đến cái tới hạn mà ở đó anh vẫn còn là con người. Do đó, một trong những khía cạnh quan trọng nhất khi nghiên cứu về tự do là nghiên cứu điều kiện để có được tự do. Ở đây, tôi muốn nói đến điều kiện khai thác các quyền tự do, bởi rõ ràng mỗi người khai thác tự do một cách khác nhau, khác nhau về trình độ, khác nhau về năng lực và do đó, trên thực tế có cả những thứ tự do giả hiệu. Đó cũng chính là những giới hạn của tự do. Những phân tích của tôi tập trung vào giới hạn của tự do nhìn từ góc độ năng lực con người.

Tôi cho rằng, tự do không chỉ là quyền, tự do đồng thời là một năng lực. Quyền và năng lực là hai khái niệm khác nhau. Quyền là không gian lý thuyết mà con người phải có, còn năng lực chính là không gian thực tế con người có thể khai thác được. Ví dụ, một người có quyền sử dụng bất kỳ phương tiện giao thông gì, từ xe đạp đến ô tô, nhưng lại không có năng lực đi ô tô nên anh ta không thể khai thác hết không gian quyền tự do đi ô tô của mình. Do đó, muốn đi bằng ô tô, anh ta phải nhờ người khác lái, tức là anh ta đã thực hiện quyền tự do của mình một cách hạn chế bằng việc lệ thuộc vào người khác. Như vậy, việc khai thác không gian tự do phụ thuộc vào năng lực của mỗi người.

Đối với mỗi con người bao giờ cũng tồn tại hai không gian tự do: không gian tự do bên trong và không gian tự do bên ngoài. Hai không gian này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu bên ngoài không có tự do mà bên trong con người có tự do thì đấy là sự gồng mình của tự do chứ không phải là tự do. Con người phải phấn đấu để các quyền tự do ở bên ngoài được dội vào trong và tạo thành sự tự do tinh thần. Có những người có rất nhiều quyền tự do nhưng không tạo ra được cảm giác tự do ở bên trong và đó là kết quả của sự lười biếng. Nếu không học, không phấn đấu thì không ai có thể biến tự do thành năng lực cá nhân. Tự do bên trong không gian tinh thần của con người chính là năng lực, con người phải chủ động phấn đấu để biến tự do thành năng lực của mình. Anh có các quyền khách quan nhưng anh không phấn đấu biến các quyền ấy thành năng lực của anh thì thứ tự do mà anh có cũng vô nghĩa. Bởi vì biến các quyền tự do bên ngoài trở thành năng lực tự do bên trong chính là khởi đầu quá trình sáng tạo của con người. Nếu con người không phấn đấu để được hưởng tự do, để biến các quyền tự do có tính chất pháp lý trở thành các quyền tinh thần, trở thành năng lực của mình thì có cho con người tự do cũng không đem lại ích lợi gì.

Khả năng khai thác tự do, biến các quyền tự do thành năng lực ở mỗi người phụ thuộc vào khả năng nhận thức về cái Tất yếu của người đó. Trước đây, các nhà hiền triết, các nhà triết học thường giải thích về cái Tất yếu một cách rất trừu tượng, cho nên M. Gorki trong Kiếm sống đã phải thốt lên rằng: "Tôi không hiểu vì sao Marx lại miêu tả quy luật về giá trị thặng dư trong mấy nghìn trang sách, trong khi tôi cảm nhận thấy nó hàng ngày trên da thịt mình". Con người thường làm phức tạp vấn đề cho nên họ khó nhận ra cái Tất yếu. Tất yếu chính là thể hiện của năng lực khai thác không gian quyền của mỗi người. Mà năng lực khai thác không gian quyền của từng người là khác nhau, vì thế, khái niệm Tất yếu đối với mỗi người là khác nhau, và đấy cũng là cái Tất yếu của mỗi người. Nếu anh có đủ trí tuệ để khai thác hết không gian ấy thì anh có tự do nhiều hơn người khác hay là năng lực mở rộng cái Tất yếu của anh lớn hơn. Đôi khi có những con người có năng lực siêu hạng nên họ đã khai thác được những quyền, những không gian tự do lớn hơn rất nhiều lần so với không gian cho phép.

Có một tác phẩm rất thú vị có thể dùng như là một ví dụ để phân tích về tự do, đó là "Robinson Crusoe". Có thể có người cho rằng Robinson Crusoe là người không tự do khi bị cô lập trên hoang đảo. Nhưng theo quan điểm của tôi, trong hoàn cảnh đó, Robinson Crusoe vẫn có tự do và là người biết khai thác tự do. Robinson Crusoe là người hiểu được cái Tất yếu trong hoàn cảnh của anh ta là bị lạc lên hoang đảo, không có đồ ăn, không có thức uống và không ai chữa bệnh. Nhận thức được về cái Tất yếu đó nên anh ta buộc phải chăn nuôi, buộc phải gieo trồng, buộc phải đi tìm thuốc. Kết quả là, bằng trí tưởng tượng và bằng kinh nghiệm, Robinson Crusoe đã tự tạo ra một cuộc sống cho mình trên hoang đảo. Anh ta đi tìm xã hội của mình, gá khái niệm xã hội của mình lên trên một con vẹt, gá khát vọng xã hội của mình bằng cách cứu vớt và dạy dỗ một chàng Thứ Sáu. Không chỉ tạo ra cuộc sống vật chất, Robinson Crusoe còn tạo ra đời sống xã hội của mình và đấy chính là tự do. Nói cách khác, tinh thần cơ bản hay sự hấp dẫn của tác phẩm "Robinson Crusoe" chính là tự do. Đấy là một trong những tác phẩm văn học hay nhất mà nhân loại có được nói về tự do, nói về sự bảo tồn, sự hình thành các giá trị và nhân cách tự nhiên của con người. Đến một nơi xa lạ như vậy, không có mối liên hệ nào, không có gì cả nhưng con người vẫn giữ được sự liên lạc với con người thông qua các thông điệp, thông qua các kinh nghiệm về con người của mình. Nói về tự do không chỉ nói về quyền mà còn phải nói về năng lực và giới hạn của năng lực hay là cái Tất yếu. Không thoát ra khỏi hòn đảo được, đấy là một Tất yếu của Robinso Crusoe. Tìm mọi cách thoát ra khỏi đảo cũng là một Tất yếu của Robinson Crusoe.

Như vậy, có thể nói tất yếu là giới hạn của tự do hay là giới hạn năng lực của con người. Phải nói rằng có những cái Tất yếu là chân lý, là vĩnh cửu, chẳng hạn như thời gian, như cái chết... tức là con người không vượt qua được nó. Nhưng những cái Tất yếu như thế không nhiều. Phần lớn các Tất yếu đều có thể bị phá vỡ phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người, tức là sự phát triển của nhận thức sẽ giúp con người phá vỡ ranh giới của các tất yếu. Con người không bay được là một Tất yếu, con người không thể đi qua bờ vực được là một Tất yếu. Nhưng nếu con người sáng tạo ra một cái máy để có thể bay được thì bờ vực không còn là cái Tất yếu của tự do nữa. Khi khẳng định rằng Tự do là một khái niệm, một đại lượng phát triển, tức là một đại lượng động, một đại lượng có thể nở ra được, thì có nghĩa là Tất yếu cũng là một đại lượng có thể giãn nở. Nếu năng lực con người phát triển thì Tất yếu cũng phát triển. Thực tế cuộc sống cho thấy rõ điều ấy. Ví dụ, trước đây, người ta nghĩ rằng chỉ có chim mới bay được và bầu trời thuộc về con chim, nhưng sau này người ta thấy con người cũng bay mà còn bay một cách nhàn hạ hơn chim, vừa bay vừa đọc sách.

Con người đã sáng tạo ra máy bay để thay thế việc bay theo nghĩa cổ điển của con chim trở thành việc trôi nổi trong không khí, và do đó, sự không bay được của con người không còn là một Tất yếu nữa. Tuy nhiên, đôi khi con người không bay được không phải vì con người không có khả năng bay, mà vì con người không muốn bay, sợ bay. Trong trường hợp này, nỗi sợ bay ấy là một tất yếu cụ thể ràng buộc con người. Nói rộng ra, nếu dùng các luận thuyết để trói buộc con người vào các Tất yếu cụ thể thì con người không phát triển được. Để nới rộng các Tất yếu, con người phải có đủ ý chí để vượt qua được các hạn chế về mặt tinh thần. Cho nên cuộc chiến thắng những mặt lạc hậu của tư tưởng là một cuộc đấu tranh vĩ đại để giải phóng con người. Chúng ta phấn đấu để con người có năng lực bay, nhưng chúng ta cũng phấn đấu để giải phóng con người ra khỏi sự khiếp sợ không muốn bay. Đấy là cuộc phấn đấu có thật để nới rộng các giới hạn mang chất lượng tất yếu của đời sống tinh thần của con người. Tóm lại, các giới hạn của khái niệm Tất yếu phát triển cùng với năng lực con người, hay cái Tất yếu được nhận thức và nới rộng bởi sự phát triển năng lực con người.

Ở đây có một vấn đề cần lưu ý là con người cần phải có sự phân biệt giữa sự tự do, tự tin với sự điên cuồng. Dám làm những chuyện tày liếp không phải là biểu hiện của tự do mà là điên cuồng. Con người tự do là con người biết các giới hạn, biết mình là ai và mình có thể hành động đến đâu. Con người cần phải nhận ra tính tất yếu của các giới hạn. Nhận thức ra sự lệ thuộc của mình vào một số các yếu tố chính là nhận ra cái Tất yếu. Thông thường, con người chỉ có thể sử dụng cái tự do mà mình có thể có chứ không phải là tất cả cái tự do mà mình có quyền có. Không thể đưa ra những đòi hỏi mà con người không thể vượt qua được, phải biết đưa ra các đòi hỏi hợp lý làm cho con người cảm thấy tự do trong giới hạn có thể có, con người biết chừng mực và cảm thấy yên tâm, cảm thấy không căng thẳng, không đố kỵ, không tức tối. Điều này vô cùng quan trọng đối với nhận thức của con người. Con người khôn ngoan là con người nhận thức được về những giới hạn ở những giai đoạn khác nhau, trên những khía cạnh khác nhau, ở những vấn đề khác nhau của đời sống. Cho nên, trong thời đại này, tự do theo quan điểm của Hegel đã có những bước phát triển mới, đó là Tất yếu chính là Tự do. Tuy nhiên, trên thực tế, luôn có sự mâu thuẫn giữa năng lực tự do và nhu cầu tự do của con người, giữa năng lực hiểu biết, sử dụng tự do và khát vọng tự do. Con người bao giờ cũng mâu thuẫn giữa đòi hỏi và khả năng, và đấy là nỗi bất hạnh vĩnh hằng của con người.

Trên cơ sở các phân tích về tự do, chúng ta có thể xác lập ranh giới giữa các loại đối tượng, đó là loại đối tượng có năng lực sử dụng và khai thác tự do và loại đối tượng không có năng lực hay không biết khai thác và sử dụng tự do. Mặc dù tự do là sở hữu tự nhiên của con người, nhưng không phải tất cả mọi người đều có năng lực khai thác được thứ tài sản vô giá ấy. Năng lực nhận ra cái Tất yếu là năng lực quan trọng nhưng không phải là năng lực quan trọng nhất, mà năng lực khai thác mới là năng lực quan trọng nhất, bởi vì, nhận biết là một bước trong quá trình phát triển khả năng. Nhưng không phải con người khi nhận biết xong rồi mới hành động, mà cùng với hành động, con người sẽ có thêm nhận thức, tức là nhận biết là quá trình tương tác của ý thức đối với cuộc sống. Con người phải có năng lực khai thác hết các không gian quyền của mình và phải có năng lực để đòi hỏi không gian lớn hơn. Con người vừa hành động vừa nhận thức, vừa mở rộng không gian hành động vừa mở rộng không gian nhận thức. Điều này chứng minh rằng tự do là một khái niệm phát triển, hay có giá trị phát triển, nó lớn lên cùng với kinh nghiệm của con người.

IV. Tôn giáo và lòng tin

Đời sống tôn giáo là một phần trong toàn bộ đời sống ở tầng lý tưởng, tầng thần thánh của con người. Tôn giáo là hình thức thể hiện tình yêu của con người đối với các giá trị thần thánh. Con người có thể thuộc về một tôn giáo nào đó, nhưng cũng có những người nằm giữa các vùng giao thoa của các tôn giáo khác nhau. Vì nằm giữa vùng giao thoa của các tôn giáo nên lúc thì con người thuộc về tôn giáo này, lúc thì thuộc về tôn giáo kia, tuy nhiên, lúc nào con người cũng thuộc về một tôn giáo cụ thể và đó là dấu hiệu quan trọng nhất của con người. Khi con người bế tắc, mệt mỏi trong cuộc sống thì con người cầu cứu tôn giáo. Chính vì thế, tôn giáo là một loại công cụ để hỗ trợ tinh thần con người. Tôn giáo là cái thang để con người leo lên những cõi thiêng liêng hay cõi tiên mà những người trần tục, tầm thường không vươn tới được.

Sự vĩ đại của tôn giáo là ở chỗ nó tạo ra niềm tin của mỗi một cá nhân. Con người không có tôn giáo sẽ trở nên bơ vơ bởi vì không phải lúc nào con người cũng có thể nương tựa vào nhau, mà con người luôn phải nương tựa vào lòng tin của chính mình. Giá trị tinh thần, giá trị nhân văn của tôn giáo là tạo ra lòng tin của một cá nhân vào Chúa của họ, đó là lòng tin của con người. Tôi cho rằng, Chúa là sản phẩm của con người, nói đúng hơn là sản phẩm của trí tưởng tượng về sự thánh thiện của con người. Con người tin vào Chúa, vào Phật có nghĩa là con người có lòng tin. Lòng tin là sở hữu riêng của mỗi cá nhân và là một yếu tố cấu thành rất quan trọng của không gian cái Tôi. Khi có sự kết hợp giữa cái Tôi với lòng tin của nó, con người không phải sở hữu một nửa lòng tin mà sở hữu trọn vẹn lòng tin.

Một trong những khía cạnh tinh thần quan trọng của cái Tôi chính là nó sở hữu trọn vẹn lòng tin của mình.

Trong những sự mất tự do thì sự hiến thân cho đấng thiêng liêng là sự mất tự do đáng yêu của con người. Chính điều này đã tạo ra tôn giáo. Tuy nhiên, tôn giáo công bằng ở chỗ, nó trả lại cho con người một tâm trạng khác làm cho con người tự do hơn, đó là lòng dũng cảm. Con người có tôn giáo dũng cảm hơn, thanh thản hơn và do đó, tự do hơn trong những khoảng không gian khác. Con người đổi tự do ở khía cạnh này lấy tự do chắc chắn hơn ở khía cạnh khác, giống như xã hội công dân chính là đổi tự do cá nhân bản năng lấy tự do xã hội, nhờ đó mà tự do của mỗi người được bảo vệ. Tôn giáo gắn liền với sự phát triển con người và hướng sự phát triển của con người tới những gì cao quý, đẹp đẽ nhất.

Phải khẳng định rằng, tôn giáo là một yếu tố hỗ trợ sự phát triển, nhưng khi bị chính trị hoá, nó trở nên cực đoan. Tất cả những hiện tượng cực đoan xảy ra trong lịch sử nhân loại đều là kết quả của sự lồng ghép các yếu tố chính trị vào trong tôn giáo. Ở không ít quốc gia, con người không nhận ra những mặt phải chăng của tôn giáo nên không biết sử dụng sự phải chăng ấy như một công cụ quan trọng để cân bằng lại đời sống tinh thần của mình. Thậm chí, con người phá vỡ tính cân bằng của tôn giáo khi cường điệu giá trị của một loại tôn giáo. Tôn giáo đã có lúc bị lợi dụng do tính trừu tượng, do sự thiếu các giá trị cụ thể hay sự quan tâm cụ thể, vì thế, đôi khi con người vẫn lên án những mặt tiêu cực của tôn giáo mà không biết rằng đó là hệ quả của những kẻ lợi dụng tôn giáo chứ không phải bản thân tôn giáo. Như vậy, một trong những sai lầm quan trọng về mặt khoa học chính trị là con người đã chính trị hoá tôn giáo, thay thế niềm tin tôn giáo bằng niềm tin vào một số đối tượng cụ thể. Chính trị hoá tôn giáo làm cho tôn giáo mất đi các chức năng tự nhiên và các giá trị chân chính của nó. Mặc dù vậy, chính trị hóa tôn giáo là một khuynh hướng luôn luôn có ở mọi thời đại, ngay cả những thời đại xa xưa hàng nghìn năm về trước. Điều đó có nghĩa là, hiện tượng chính trị hóa tôn giáo là một hiện tượng có thật và chúng ta cần phải đấu tranh với nó chứ không phải đấu tranh với tôn giáo.

Con người vốn dĩ thường xuyên đố

Xem đầy đủ bài viết tại http://my.opera.com/qtdn/blog/show.dml/3814782

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét