IV. Tôn giáo và lòng tin
Đời sống tôn giáo là một phần trong toàn bộ đời sống ở tầng lý tưởng, tầng thần thánh của con người. Tôn giáo là hình thức thể hiện tình yêu của con người đối với các giá trị thần thánh. Con người có thể thuộc về một tôn giáo nào đó, nhưng cũng có những người nằm giữa các vùng giao thoa của các tôn giáo khác nhau. Vì nằm giữa vùng giao thoa của các tôn giáo nên lúc thì con người thuộc về tôn giáo này, lúc thì thuộc về tôn giáo kia, tuy nhiên, lúc nào con người cũng thuộc về một tôn giáo cụ thể và đó là dấu hiệu quan trọng nhất của con người. Khi con người bế tắc, mệt mỏi trong cuộc sống thì con người cầu cứu tôn giáo. Chính vì thế, tôn giáo là một loại công cụ để hỗ trợ tinh thần con người. Tôn giáo là cái thang để con người leo lên những cõi thiêng liêng hay cõi tiên mà những người trần tục, tầm thường không vươn tới được.
Sự vĩ đại của tôn giáo là ở chỗ nó tạo ra niềm tin của mỗi một cá nhân. Con người không có tôn giáo sẽ trở nên bơ vơ bởi vì không phải lúc nào con người cũng có thể nương tựa vào nhau, mà con người luôn phải nương tựa vào lòng tin của chính mình. Giá trị tinh thần, giá trị nhân văn của tôn giáo là tạo ra lòng tin của một cá nhân vào Chúa của họ, đó là lòng tin của con người. Tôi cho rằng, Chúa là sản phẩm của con người, nói đúng hơn là sản phẩm của trí tưởng tượng về sự thánh thiện của con người. Con người tin vào Chúa, vào Phật có nghĩa là con người có lòng tin. Lòng tin là sở hữu riêng của mỗi cá nhân và là một yếu tố cấu thành rất quan trọng của không gian cái Tôi. Khi có sự kết hợp giữa cái Tôi với lòng tin của nó, con người không phải sở hữu một nửa lòng tin mà sở hữu trọn vẹn lòng tin.
Một trong những khía cạnh tinh thần quan trọng của cái Tôi chính là nó sở hữu trọn vẹn lòng tin của mình.
Trong những sự mất tự do thì sự hiến thân cho đấng thiêng liêng là sự mất tự do đáng yêu của con người. Chính điều này đã tạo ra tôn giáo. Tuy nhiên, tôn giáo công bằng ở chỗ, nó trả lại cho con người một tâm trạng khác làm cho con người tự do hơn, đó là lòng dũng cảm. Con người có tôn giáo dũng cảm hơn, thanh thản hơn và do đó, tự do hơn trong những khoảng không gian khác. Con người đổi tự do ở khía cạnh này lấy tự do chắc chắn hơn ở khía cạnh khác, giống như xã hội công dân chính là đổi tự do cá nhân bản năng lấy tự do xã hội, nhờ đó mà tự do của mỗi người được bảo vệ. Tôn giáo gắn liền với sự phát triển con người và hướng sự phát triển của con người tới những gì cao quý, đẹp đẽ nhất.
Phải khẳng định rằng, tôn giáo là một yếu tố hỗ trợ sự phát triển, nhưng khi bị chính trị hoá, nó trở nên cực đoan. Tất cả những hiện tượng cực đoan xảy ra trong lịch sử nhân loại đều là kết quả của sự lồng ghép các yếu tố chính trị vào trong tôn giáo. Ở không ít quốc gia, con người không nhận ra những mặt phải chăng của tôn giáo nên không biết sử dụng sự phải chăng ấy như một công cụ quan trọng để cân bằng lại đời sống tinh thần của mình. Thậm chí, con người phá vỡ tính cân bằng của tôn giáo khi cường điệu giá trị của một loại tôn giáo. Tôn giáo đã có lúc bị lợi dụng do tính trừu tượng, do sự thiếu các giá trị cụ thể hay sự quan tâm cụ thể, vì thế, đôi khi con người vẫn lên án những mặt tiêu cực của tôn giáo mà không biết rằng đó là hệ quả của những kẻ lợi dụng tôn giáo chứ không phải bản thân tôn giáo. Như vậy, một trong những sai lầm quan trọng về mặt khoa học chính trị là con người đã chính trị hoá tôn giáo, thay thế niềm tin tôn giáo bằng niềm tin vào một số đối tượng cụ thể. Chính trị hoá tôn giáo làm cho tôn giáo mất đi các chức năng tự nhiên và các giá trị chân chính của nó. Mặc dù vậy, chính trị hóa tôn giáo là một khuynh hướng luôn luôn có ở mọi thời đại, ngay cả những thời đại xa xưa hàng nghìn năm về trước. Điều đó có nghĩa là, hiện tượng chính trị hóa tôn giáo là một hiện tượng có thật và chúng ta cần phải đấu tranh với nó chứ không phải đấu tranh với tôn giáo.
Con người vốn dĩ thường xuyên đối diện với những điều kiện khó khăn trong cuộc sống nên luôn phải tìm kiếm các điểm tựa tinh thần cho mình, và Chúa là một chỗ dựa phổ biến. Chúa không chỉ là đức Jesus mà Chúa còn là hiện thân của tất cả những gì thiêng liêng mà con người tôn thờ. Mỗi dân tộc, mỗi châu lục có một chỗ dựa tinh thần khác nhau và ngăn cản con người tìm kiếm hoặc nương tựa vào một chỗ dựa tinh thần là sai lầm. Nhưng đó cũng chỉ là một trong vô số những sai lầm của con người. Mọi sai lầm phải được sám hối trước Chúa, tức là con người phải được tắm gội bằng tự do và con người chỉ có thể hình dung về sự hội tụ của tất cả các giá trị của tự do thông qua hình ảnh Chúa. Rửa tội trước Chúa tức là làm sạch sẽ đời sống tinh thần của con người, đưa con người bằng cả ý chí và bản năng trở về trạng thái phải chăng để chuẩn bị cho tương lai. Rất có thể trong tương lai, con người sẽ lặp lại sai lầm ở một mức độ nhất định nào đó, chính vì thế con người cần đến tôn giáo như là một sự hỗ trợ liên tục đối với sự phát triển của nó. Đấy là vai trò vĩ đại của tôn giáo đối với con người.
Con người cần phải hợp tác với tôn giáo trong việc tổ chức và điều hành xã hội. Lý tưởng của mỗi con người khác nhau, không thể áp đặt một lý tưởng chung cho tất cả mọi người. Nếu chúng ta đồng nhất giữa lý tưởng riêng và lý tưởng chung thì chúng ta vô tình làm mất đi con người với tư cách là các cá nhân chứ không phải chúng ta hỗ trợ con người phát triển. Tôn giáo là một trong những yếu tố được gọi là lý tưởng cộng đồng, cùng với các tôn giáo là các cộng đồng khác nhau, và mỗi cộng đồng có lý tưởng của họ. Từ lý tưởng cá nhân đến lý tưởng cộng đồng, đến lý tưởng quốc gia là những mức độ, trạng thái khác nhau của lý tưởng con người. Hiểu biết về quy luật phát triển của lý tưởng con người giúp cho chúng ta có thái độ hợp tác với tôn giáo. Mỗi tôn giáo cần phải được xem như là lý tưởng của một cộng đồng để khích lệ, để kêu gọi, để lôi kéo cộng đồng ấy hợp tác với các cộng đồng khác vì lợi ích của quốc gia.
Các tôn giáo khác nhau có sự hạn chế khác nhau đối với tự do, hay là có những quy tắc khác nhau về tự do. Có thể nói, Thiên Chúa giáo là tôn giáo mang lại nhiều tự do bởi vì nó là tôn giáo của các dân tộc văn minh, nó có những kinh nghiệm cọ xát nhiều nhất và do đó, nó có kinh nghiệm nhất về con người, nó đưa ra các nguyên lý hỗ trợ tự do của con người. Tuy nhiên, không phải giai đoạn nào Thiên chúa giáo cũng làm được như thế. Tôn giáo nào cũng có những giai đoạn lạc hậu, những giai đoạn khủng hoảng, những giai đoạn cực đoan của nó. Thiên Chúa giáo đã đi qua những giai đoạn đó trong khi vẫn còn một số tôn giáo khác chưa qua được, ít nhất là ở thời điểm này.
Chúng ta cần phải đặt niềm tin một cách lạc quan vào diễn biến tích cực của đời sống tinh thần con người. Quá trình đó có thể dài, có thể ngắn, nhưng phải tin vào con người, tin vào sự hướng thiện của con người, phải tin vào sự hướng thiện của các tôn giáo. Mọi tôn giáo đều phải được tôn trọng, quyền tham gia các tôn giáo của con người cũng phải được tôn trọng, kể cả với các tôn giáo tỏ ra không tích cực ở trạng thái hiện nay, bởi vì biết đâu nay mai nó sẽ thích hợp. Tôi vẫn nghĩ và vẫn hy vọng đến một lúc nào đó các tôn giáo ấy sẽ đi qua được trạng thái cực đoan và hội tụ đến những trạng thái hợp lý của nó. Tôn giáo không còn là cách con người sốt ruột tìm đến sự an toàn của mình trong việc đánh đổi tự do. Đã qua rồi giai đoạn ấy. Trong trạng thái phát triển của thế giới hiện nay, tôn giáo nói chung là nơi sinh hoạt tinh thần, là thói quen tinh thần của con người hay có thể nói, tôn giáo là một trong những phương tiện hỗ trợ con người về mặt tinh thần, giúp con người củng cố niềm tin của chính mình.
Để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của tất cả các tôn giáo, con người phải xây dựng các nhà nước thế tục. Các nhà nước thế tục với những bộ luật tôn trọng và đảm bảo tính trong sáng chính trị của tôn giáo là những công cụ chính trị vĩ đại để tạo ra trật tự xã hội. Xây dựng nhà nước thế tục là công việc rất quan trọng, vì nếu không có các chính phủ và nhà nước thế tục thì sẽ không có sự bình đẳng giữa các tôn giáo. Nếu không có sự bình đẳng giữa các tôn giáo thì không có hoà bình giữa con người với nhau.
Có thể nói, cái gọi là thiên đường hay cõi tiên mà mọi tôn giáo đều đề cập đến là một bộ phận của cuộc sống. Mỗi người đều có cõi tiên riêng của mình, mỗi một dân tộc đều có cõi tiên phổ biến của mình như là một lý tưởng thẩm mỹ của con người vươn tới sự cao thượng, vươn tới sự trong sáng, vươn tới sự thư giãn tuyệt đối của đời sống tinh thần. Cõi tiên như là dấu hiệu của sự hướng thiện, đồng thời như là một dấu hiệu về sự bất lực của con người trong hành trình vươn tới đỉnh cao của sự hướng thiện. Khi nói chuyện về tác phẩm Thiên thai, nhạc sĩ Văn Cao nói rằng: "Lúc còn trẻ chúng ta cứ nghĩ là có một cõi thiên thai, và đi tìm mãi nhưng không thấy, rồi cuối cùng lại tìm thấy trong chính mình, trong sâu thẳm tâm hồn mình". Nếu chúng ta phê phán những thứ đó là duy tâm thì tức là chúng ta tầm thường hoá nhận thức. Duy tâm là con người tự hỏi mình, tự tư duy bằng tình yêu đối với lý tưởng của mình. Và một khi con người mất đi những tình cảm như vậy con người sẽ trở nên mất cần bằng và con người sẽ phải đối mặt với sự tha hoá của đời sống tinh thần. Tham nhũng chính là hiện tượng tan rã các giá trị cao quý của đời sống tinh thần con người. Đó là hiện tượng triết học chứ không chỉ đơn thuần là hiện tượng chính trị hay đạo đức. Con người không còn lý tưởng thẩm mỹ về chính mình nữa thì sẵn sàng làm mọi việc mà không cần biết đến mặt trái hay hậu quả của nó. Để tránh rơi vào trạng thái đó, con người phải luôn luôn biết vươn tới những giá trị thẩm mỹ cao quý, hay nói cách khác, vươn tới những giá trị thẩm mỹ cao quý là phẩm hạnh của con người.
Con người cần yên tâm về các giá trị tinh thần, về khả năng cảm thấy các giá trị lý tưởng của mình. Cõi tiên là nhu cầu chính đáng của con người, con người biết rằng cõi tiên không bao giờ có thật, cõi tiên bao giờ cũng là lý tưởng, tuy nhiên con người không được đánh mất nó, vì đánh mất nó chính là đánh mất ham muốn vươn lên các giá trị tinh thần cao nhất. Nhưng con người không được ngủ quên ở đó và làm mất đi năng lực hành động thực dụng của mình. Cõi tiên cũng là để con người nghỉ ngơi, để con người duy trì, để con người làm mẫu cho các thiết kế về hạnh phúc của nó. Con người không bao giờ thiết kế được hạnh phúc tuyệt đối, nhưng con người luôn luôn phải có khuynh hướng thiết kế hạnh phúc của mình gần giống với sự tuyệt đối, với chất lượng lý tưởng của cõi tiên và đó là khát vọng chân chính của con người.
Nguyễn Trần Bạt
Cội nguồn cảm hứng
Chungta.com
Xem đầy đủ bài viết tại http://my.opera.com/qtdn/blog/show.dml/3814874
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét